logo

Trong sáu năm qua, những hệ thống vườn ương tôm trước khi thả nuôi  đã phát triển nhanh chóng ở Mỹ Latin. Bây giờ thời gian nuôi trong ao ương là lâu hơn, sinh khối lớn hơn và các hệ thống truyền tải và hệ thống kiểm soát nước  tốt hơn. Thức ăn và chế phẩm sinh học cũng đã được cải thiện. Mục tiêu là để sản xuất hậu ấu trùng mạnh hơn  thích nghi được với môi trường ao nuôi khi sang qua. Điều này sẽ làm cho tôm sang qua đạt tỉ lệ sống cao, hạn chế nhiễm các bệnh về virus, vi khuẩn, Ems….

Kể từ khi phát hiện tác nhân gây bệnh EMS / AHPND là Vibrio,thì  hệ thống ương cho phép người nuôi tập trung vào việc kiểm soát các vi khuẩn Vibrio trong một khu vực nhỏ hơn và trì hoãn việc tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh. Tại Mexico và châu Á đây là một trong những chiến lược được sử dụng để giảm thiểu hội chứng tử vong sớm (EMS).

Chi phí lớn nhất trong nuôi tôm là trong quá trình nuôi tăng trưởng. Sang tôm sau khi ương đến PL-45, thay vì PL-12, làm giảm thời gian của giai đoạn nuôi vỗ từ 20-30 ngày. Một chu kỳ ngắn hơn có nghĩa là chi phí thức ăn và đầu tư thấp hơn. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) có thể được giảm từ 10-30%.

Sự phát triển của hệ thống ương ở Mexico:

Đốm trắng, cùng với những bất lợi về thời tiết tại địa phương (Mexico có điều kiện thời tiết khắc nghiệt, mùa hè nóng và mùa đông lạnh) nên người nuôi phát hệ thống ao ương của họ.

Các thông số x 50 tấn/ha năm 2008 phát triển thành 100 tấn/ha trong hệ thống raceways trong năm 2009 và sau đó đến 500 tấn/ha trong năm 2011. Hiện tại, năng suất có thể đạt từ 800 đến 1.000 tấnkhi nuôi  trong nhà kính. Các chế phẩm sinh học được sử dụng để kiểm soát chất lượng nước và sức khỏe động vật:

Xử lý các chất hữu cơ, 3ppm định kỳ sau 72 giờ

• Khử các độc tố, 2-5 ppm định kỳ sau 48 giờ.

• Đối với tác nhân gây bệnh trong nước, 2 ppm định kỳ sau 72 giờ.

Sử dụng nguồn thức ăn cho tôm giống chất lượng cao. Quản lý ao ương không theo một bảng ăn cố định. Thông thường, chúng ăn thức ăn có năng lượng cao với ít nhất 45% protein thô trong khoảng thời gian 2 giờ. Lượng thức ăn được điều chỉnh tùy thuộc vào canh nhá, chất lượng nước và tăng trưởng tôm.

Từ năm 2012, máy bơm đã được sử dụng để chuyển tôm từ các bao ương sang các ao nuôi thương phẩm, giảm tỷ lệ tử vong trong quá trình chuyển giao để chỉ 3-5%. Quá trình sang tôm đã được tính  để tôm không ra khỏi nước trong hơn 30-60 giây. Trong năm 2013, sử dụng máy bơm, khoảng cách truyền tải đã tăng lên đến 3 cây số và khối lượng lên tới 15 kg tôm một phút. Điều quan trọng là chuyển được thực hiện vào buổi sáng, buổi chiều muộn hoặc vào ban đêm. Các điều kiện của tôm nên được kiểm tra trước mỗi lần chuyển.

Một phát triển gần đây là sự giảm mật độ thả giống trong hệ thống raceways để đạt được postlarvae lớn hơn và tỷ lệ sống sót cao hơn. Sinh khối  6,9 kilôgam trên mét khối đã đạt được.

Kinh nghiệm ương tôm ở châu Á:

Trong 2013-2014, các kỹ thuật được sử dụng trong hệ thống ương tôm ở  Mexico đã được chuyển giao thành công cho một trang trại nuôi tôm của Malaysia. Postlarvae được thả trong hệ thống raceways từ 25-30 ngày khi đạt 1-to-1,5-gram, sau đó được thả vào ao nuôi vỗ ở mật độ 70-80 con mỗi mét vuông. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) trong raceways là 1,0-1,5 tùy thuộc vào thời gian nuôi. Trong ao nuôi vỗ tôm đã lên đến 17-18 gram, và FCR là 1,3. Tỉ lệ sống trong các ao nuôi thương phẩm đạt từ 90-95%.

Tại Thái Lan, đã có kết quả khác nhau. Có thành công ở giai đoạn ương (vèo), nhưng do đầu tư cao đa số ho6j nghèo khó làm được. Các ý tưởng khác đã được đưa ra như thả giống trong lồng mà không hề tiếp xúc với đáy trong 30 ngày đầu tiên của nuôi, sau đó bung ra ao nuôi, điều này tránh được một đợt bùng phát EMS. Một lựa chọn khác là tách 20-30% ao bằng lưới, thả tôm ương khu vực này, và sau đó bung chúng vào toàn bộ ao sau 20 đến 30 ngày.

 

Ở Việt Nam, việc thực hiện các hệ thống ương đã bị cản trở bởi một thiếu vốn đầu tư, công nghệ và an toàn sinh học kém. Một ít thành công đã được báo cáo ở miền Trung Việt Nam, nhưng cũng còn hạn chế do còn yếu về mặt quản lý môi trường, quản lý chất luộng nước, thức ăn nên tỉ lệ thành công chưa cao.

Nông dân ở châu Á nên đầu tư vào những công nghệ mới được phát triển ở châu Mỹ Latinh và tinh chỉnh nó cho phù hợp ở châu Á.

 

Biên dịch, Kỹ sư thủy sản: Nguyễn Hữu Nam

Nguồn: Tạp chí Thuỷ sản. Biên tập viên Greg Lutz (email editorinchief@dpinternationalinc.com). Nursery pha trong nuôi tôm: Lợi ích Beyond EMS. Fernando Garcia Abad (email fernando.garcla@epicorebionetworks.com). Tập 41, Số 4, trang 6, August / tháng 9 năm 2015.

địa chỉ Địa chỉ: Thôn 1, Diên Phú, Diên Khánh, Khánh Hòa.
địa chỉ Điện thoại:0901 68 55 66
địa chỉ Email:biozymecenter@gmail.com
địa chỉ MST:4201616438